Đại tướng đô đốc (General admiral) là một cấp bậc hải quân của Đan Mạch, Hà Lan, Đức, Nga, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Thụy Điển. Nguồn gốc lịch sử của nó là một chức danh quân sự cấp cao hoặc chức sắc hải quân của châu Âu thời kỳ đầu hiện đại đôi khi được nắm giữ, ví dụ như tổng tư lệnh (trên danh nghĩa) của hải quân Cộng hòa Hà Lan (thường là Hoàng tử Cam).
Đan Mạch
Tại Đan Mạch, Đại tướng Đô đốc (General admiral, tiếng Đan Mạch: Generaladmiral) là thuật ngữ chỉ tổng tư lệnh của hải quân (commander-in-chief) Đan Mạch-Na Uy. Cấp dưới của Đại tướng Đô đốc là Trung tướng Đô đốc (Lieutenant General Admiral, tiếng Đan Mạch: Generaladmiralløjtnant).
Đức quốc xã (Nazi Germany)
Đại tướng Đô đốc (Generaladmiral):
– Viết tắt: GenAdm.
– Nhóm xếp hạng: Sĩ quan cờ.
– Lịch sử hình thành: 1936.
– Bãi bỏ: 1945.
– Cấp bậc cao hơn liền kề: Đại Đô đốc (Großadmiral).
– Cấp bậc thấp hơn liền kề: Đô đốc (Admiral).
– Cấp bậc tương đương: Generaloberst (Đại tướng).
Trong Kriegsmarine của Đức trong Thế chiến II, Đại tướng Đô đốc (Generaladmiral) là cấp cao hơn một Đô đốc (Admiral), nhưng cấp thấp hơn một Đại Đô đốc (Großadmiral). Generaladmiral là cấp tướng 4 sao, tương đương với một Đô đốc đầy đủ (full admiral) trong hải quân Anh và Mỹ. Trong hệ thống xếp hạng truyền thống của Đức cho đến Thế chiến II, một Đô đốc (Admiral) tương đương với một Phó Đô đốc (Vice admiral) của Anh hoặc Mỹ.
Phù hiệu ở tay áo của Đại tướng Đô đốc (Generaladmiral) cũng giống như phù hiệu của Đô đốc (Admiral) thông thường, là một sọc cấp bậc dày bên dưới ba sọc thường phía trên. Các Đại tướng Đô đốc đeo một cái đinh ba trên ván vai để phân biệt với các đô đốc thông thường. Quân đội và Lực lượng Không quân Đức tương đương với Đại tướng Đô đốc là cấp Đại tướng (Generaloberst).
Năm 1943, một chỉ thị được ban hành rằng nếu Oberbefehlshaber der Kriegsmarine (“chỉ huy hải quân”) giữ cấp bậc Đại tướng Đô đốc, thì ông ta sẽ đeo phù hiệu ở tay áo của một Đại Đô đốc (grand admiral), nhưng đeo vai của một Đại tướng Đô đốc (Generaladmiral).
Một thông lệ tương tự đã được sử dụng trong Quân đội Đức, cho phép các Đại tướng (colonel general) đeo 4 píp trên vai khi thực hiện các nhiệm vụ phù hợp với một Thống chế hay Nguyên soái (field marshal).
Cấp bậc Đại tướng Đô đốc (Generaladmiral) lần đầu tiên được trao cho Đại Đô đốc (Grand admiral) tương lai Erich Raeder vào ngày 20/4/1936.
Đế quốc Nga
Đại tướng đô đốc (tiếng Nga: генера́л-адмира́л) là cấp bậc cao nhất của Hải quân Đế quốc Nga theo Bảng cấp bậc và tương đương với Nguyên soái (field marshal). Đây hoàn toàn là một cấp bậc tôn vinh và trong phần lớn thời gian tồn tại của nó, nó chỉ được trao cho một người đang tại ngũ, thường là người đứng đầu bộ phận hải quân, và thường là hậu duệ của hoàng gia Romanov.
Chỉ có 9 người nắm giữ thứ hạng này từ 1695 đến 1883.
Cấp bậc Đại tướng Đô đốc (генера́л-адмира́л) đã bị bãi bỏ khi Đế chế sụp đổ và không được hồi sinh khi sự phân biệt cấp bậc được giới thiệu lại trong giai đoạn 1935-1940. Cấp bậc Đô đốc Hải quân Liên Xô (admiral of the fleet of the Soviet Union) có thể được coi là một tương đương thời hiện đại.
Vương quốc Tây Ban Nha
Đại tướng Đô đốc (Almirante general) là một cấp bậc trong Hải quân Tây Ban Nha, cao hơn Đô đốc (Admiral), nhưng thấp hơn Đại tướng (Captain general).
Vương quốc Bồ Đào Nha
Đại tướng Đô đốc (Almirante-general) là cấp bậc cao nhất trong Hải quân Bồ Đào Nha, từ 1808 đến 1812 và một lần nữa, từ 1892 đến 1910. Đây là cấp bậc hải quân tương đương với cấp bậc “thống chế” (marechal-general) hay “đại thống chế” (general field marshal) của Quân đội Bồ Đào Nha.
Cấp bậc ban đầu được giới thiệu vào năm 1808, được trao cho Tổng tư lệnh hải quân. Almirante-General có các chức năng tương tự như các chức năng của capitão-General da armada trước đây (Đại tướng Đô đốc) đã bị loại bỏ vào năm 1796 và các chức năng này được chuyển cho Hội đồng Bộ Hải quân. Thứ hạng chỉ được trao cho Hoàng tử Pedro Carlos de Bragança, bãi bỏ khi ông qua đời vào năm 1812.
Năm 1892, cấp bậc Đại tướng Đô đốc (almirante-general) được giới thiệu lại như một cấp bậc nghi lễ đơn thuần do Quốc vương Bồ Đào Nha nắm giữ trong chức năng hiến định là chỉ huy tối cao của hải quân. Với tư cách là chỉ huy tối cao của quân đội, nhà vua cũng giữ cấp bậc nghi lễ của Đại thống chế (marechal-general). Người giữ thứ hạng cuối cùng là Vua Manuel II.
Vương quốc Thụy Điển
Đại tướng Đô đốc (Generalamiral) là cấp bậc đô đốc cao nhất từng tồn tại trong Hải quân Thụy Điển, do Charles XI tạo ra với tên gọi AmiralGeneral. Gustav III khôi phục cấp bậc vào năm 1780, và cùng năm đó ban hành chỉ thị cho Tổng Đô đốc (General Admiral), người duy nhất là Vua trong Hội đồng chịu trách nhiệm về sự tồn tại và cải thiện của hải quân. Thứ hạng đã được nắm giữ bởi Henrik af Trolle (1780-84), Carl August Ehrensvärd (1792-94), Johan af Puke (1812), Victor von Stedingk (1818) và Rudolf Cederström (1823-28)./.