CHUỖI ĐẢO THỨ BA (Third Island Chain)

Xem thêm:
CHIẾN LƯỢC CHUỖI ĐẢO (Island chain strategy)
CHUỖI ĐẢO THỨ NHẤT (First island chain)
CHUỖI ĐẢO THỨ HAI (Second island chain)
CHUỖI ĐẢO THỨ TƯ, THỨ NĂM – SỰ MỞ RỘNG CÁC RÀO CẢN RA ẤN ĐỘ DƯƠNG CỦA XU THẾ ĐỊA CHÍNH TRỊ MỚI

NỀN TẢNG KHÁI NIỆM VÀ ĐỊA LÝ

KIẾN TRÚC KIỀM CHẾ VÀ MỞ RỘNG HÀNG HẢI

Nguồn gốc từ Mỹ: Từ kiềm chế đến sự hiện diện tiền phương

Khái niệm “chuỗi đảo” bắt nguồn từ tư duy chiến lược của Hoa Kỳ trong những năm 1950, được nhà bình luận chính sách đối ngoại người Mỹ John Foster Dulles lần đầu tiên đề cập vào năm 1951 trong Chiến tranh Triều Tiên. Mục tiêu chính là kiềm chế một cách thực tiễn chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô và Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương. Các tài liệu chiến lược ban đầu, chẳng hạn như một nghiên cứu của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân năm 1948 và sự ủng hộ của Tướng Douglas MacArthur cho một vành đai phòng thủ chạy từ quần đảo Aleutian qua Nhật Bản, Đài Loan và Philippines, đã thiết lập tiền đề khái niệm cho Chuỗi đảo thứ nhất. Điều này cho thấy khái niệm này có nguồn gốc sâu xa trong kế hoạch của Hoa Kỳ sau Thế chiến II nhằm củng cố một trật tự an ninh Đông Á.

Sự diễn giải lại của Trung Quốc: Từ rào cản đến thước đo

Điểm mấu chốt là sự thay đổi trong thuật ngữ: trong khi khái niệm là của Mỹ, việc phân loại thành các chuỗi “Thứ Nhất”, “Thứ Hai” và “Thứ Ba” lại bắt nguồn từ chiến lược hải quân bành trướng của Trung Quốc trong những năm 1980. Các tài liệu chiến lược của Trung Quốc xem xét các chuỗi đảo theo nhiều cách đa dạng và tinh tế: (1) là rào cản mà Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) phải xuyên thủng để đạt được tự do cơ động trên biển; (2) là bàn đạp để triển khai sức mạnh cho bất kỳ bên nào kiểm soát chúng; và (3) là thước đo để đánh giá sự tiến bộ của sức mạnh hàng hải Trung Quốc. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng về tâm lý và chiến lược mà Trung Quốc đặt ra trong việc vượt qua cái mà họ coi là sự kiềm chế do Mỹ áp đặt.

Các chuỗi đảo không chỉ là những đường kẻ trên bản đồ mà còn là những cấu trúc tâm lý mạnh mẽ. Đối với Mỹ, chúng đại diện cho một hệ thống phòng thủ theo chiều sâu, có trật tự và phân lớp. Đối với Trung Quốc, chúng là biểu tượng của sự “sỉ nhục” lịch sử và “sự giam hãm” chiến lược hiện đại. Việc Trung Quốc diễn giải lại khái niệm này từ một “tuyến phòng thủ” thành một “thước đo tiến bộ” cho thấy một tham vọng quốc gia sâu sắc nhằm lật đổ một trật tự được cho là do Mỹ áp đặt. Khía cạnh tâm lý này thúc đẩy cường độ của cuộc cạnh tranh, biến nỗ lực “vượt ra ngoài” của Trung Quốc thành một vấn đề về uy tín quốc gia cũng như chiến lược quân sự.

Phân tích địa lý so sánh ba chuỗi đảo

Chuỗi đảo thứ nhất: Được xác định trải dài từ Quần đảo Kuril, qua Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, và xuống đến Borneo và Bán đảo Mã Lai. Chốt chặn chiến lược của nó là Đài Loan, thường được gọi là “tàu sân bay không thể chìm”. Chuỗi này bao bọc các “vùng biển gần” của Trung Quốc (Hoàng Hải, Biển Hoa Đông và Biển Đông).

Chuỗi đảo thứ hai: Thường được xác định là chạy từ Quần đảo Ogasawara và Volcano của Nhật Bản, qua các lãnh thổ của Hoa Kỳ là Quần đảo Mariana (bao gồm Guam) và Palau, xuống đến Tây New Guinea. Nó đóng vai trò là tuyến phòng thủ chiến lược thứ hai cho Hoa Kỳ và là mục tiêu quan trọng cho tham vọng hải quân của Trung Quốc trong giai đoạn 2020.

Chuỗi đảo thứ ba: Được xác định về mặt địa lý là bắt đầu từ Quần đảo Aleutian gần Alaska, chạy về phía nam qua trung tâm Thái Bình Dương qua Quần đảo Hawaii, và kéo dài xuống châu Đại Dương (bao gồm Tonga, Samoa thuộc Mỹ, Fiji) đến New Zealand. Hawaii là hạt nhân chiến lược của nó, và Úc đóng vai trò là một điểm tựa quan trọng nối liền chuỗi thứ hai và thứ ba.

Sự thay đổi trong diễn ngôn chiến lược từ “Châu Á – Thái Bình Dương” sang “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (trải dài từ bờ biển châu Phi đến châu Mỹ) vốn đã nâng cao tầm quan trọng của Chuỗi đảo thứ ba. Khái niệm truyền thống “Châu Á – Thái Bình Dương” tập trung vào Chuỗi Đảo Thứ Nhất và Thứ Hai. Ngược lại, khái niệm “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương thành một không gian chiến lược duy nhất. Chuỗi Đảo Thứ Ba, với các nút ở Hawaii, châu Đại Dương và các liên kết đến Úc, nằm ngay giữa bản đồ mở rộng này. Do đó, việc Hoa Kỳ, Ấn Độ, Úc và Nhật Bản áp dụng khuôn khổ “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” tự động làm tăng giá trị chiến lược của Chuỗi Đảo Thứ Ba từ một vùng ngoại vi khu vực thành một trung tâm xuyên khu vực.

Chuỗi đảoPhạm vi địa lýCác nút chiến lược của Mỹ & Đồng minhMục tiêu chính của Trung QuốcĐặc điểm chiến lược
Thứ NhấtTừ Quần đảo Kuril đến Borneo/Bán đảo Mã Lai, bao gồm Nhật Bản, Đài Loan, Philippines.Các căn cứ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines; Đài Loan.Thống trị các vùng biển gần, cô lập Đài Loan, đẩy lùi lực lượng Mỹ.Vùng tranh chấp tiền phương; “vùng tiêu diệt” A2/AD.
Thứ HaiTừ Nhật Bản (Quần đảo Ogasawara) qua Guam, Palau đến Tây New Guinea.Guam (Andersen AFB, Căn cứ Hải quân Guam), Palau.Mở rộng phạm vi hoạt động ra ngoài vùng biển gần, thách thức quyền kiểm soát biển của Mỹ.Tuyến phòng thủ và hậu cần thứ cấp của Mỹ; mục tiêu mở rộng của Trung Quốc.
Thứ BaTừ Quần đảo Aleutian qua Hawaii đến New Zealand, bao gồm các quốc đảo Thái Bình Dương.Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (Hawaii), Eareckson AS (Aleutian), các căn cứ của Úc.Vô hiệu hóa chỉ huy của Mỹ, thiết lập quyền tiếp cận hậu cần, phá vỡ tuyến kiềm chế cuối cùng.Hậu phương chiến lược, trung tâm chỉ huy & kiểm soát, bàn đạp triển khai sức mạnh tầm xa của Mỹ.

TÍNH TOÁN CHIẾN LƯỢC CỦA CÁC CƯỜNG QUỐC

HOA KỲ: TRIỂN KHAI SỨC MẠNH TỪ CHIỀU SÂU CHIẾN LƯỢC

Hawaii: Trung tâm chỉ huy không thể chìm của INDOPACOM

Hawaii được xác định là trung tâm thần kinh chỉ huy và kiểm soát cho tất cả các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Đây là nơi đặt trụ sở của Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (INDOPACOM), Lực lượng Không quân Thái Bình Dương (PACAF), và Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ (PACFLT), bộ tư lệnh hải quân lớn nhất thế giới. Các cơ sở trọng yếu như Căn cứ Liên hợp Pearl Harbor-Hickam và Doanh trại Schofield đóng vai trò là trung tâm hậu cần và tập kết chính để triển khai sức mạnh trên toàn bộ chiến trường. Hoa Kỳ đặc biệt tập trung vào việc tăng cường khả năng trinh sát, thiết bị liên lạc và nguồn nhân lực tại các căn cứ ở Hawaii để cải thiện năng lực chỉ huy cho toàn khu vực.

Mỏ neo phía bắc: Sự hồi sinh chiến lược của quần đảo Aleutian

Quần đảo Aleutian đang được củng cố lại như một thành phần quan trọng của Chuỗi đảo thứ ba để răn đe các đối thủ cạnh tranh. Các căn cứ như Trạm Không quân Eareckson trên đảo Shemya và khả năng mở lại một căn cứ hải quân trên đảo Adak là trung tâm của chiến lược này. Giá trị chiến lược của chúng nằm ở vị trí gần các tuyến đường biển vòng cung lớn giữa châu Á và Bắc Mỹ và khả năng kiểm soát lối vào Bắc Cực.

Quan trọng hơn, Aleutian cung cấp một khu vực tập kết cho các máy bay ném bom tầm xa (B-1, B-52, B-21) mà phần lớn nằm ngoài vùng tác chiến vũ khí chính của Trung Quốc, cho phép chúng tấn công các mục tiêu ở Eo biển Đài Loan và quay trở lại mà không cần tiếp nhiên liệu – một khả năng mà các căn cứ ở Úc hay Guam không có được. Chúng cũng cung cấp một vị trí kiên cố để sơ tán máy bay khỏi các căn cứ tiền phương ở Nhật Bản và Guam, những nơi dễ bị tấn công phủ đầu bằng tên lửa.

Mục tiêu và nhiệm vụ: Răn đe, hậu cần và triển khai sức mạnh bền bỉ

Mục tiêu chiến lược bao trùm của Hoa Kỳ là duy trì ưu thế quân sự và khả năng răn đe, đánh bại sự xâm lược, đặc biệt là từ Trung Quốc. Điều này bao gồm việc triển khai sức mạnh bất chấp các thách thức chống tiếp cận/chống xâm nhập (A2/AD) của Trung Quốc. Khi các căn cứ tiền phương ở Chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai ngày càng trở nên dễ bị tổn thương, vai trò của Chuỗi đảo thứ ba chuyển từ một khu vực hậu phương thành một nền tảng chính cho các hoạt động hậu cần, tăng viện và tấn công tầm xa. Đây là hậu cứ không thể thiếu để Hoa Kỳ duy trì một cuộc xung đột nếu thế trận tiền phương của họ bị tổn hại.

Tầm quan trọng chiến lược của Chuỗi đảo thứ ba tỷ lệ nghịch với sự tự tin của Hoa Kỳ vào khả năng hoạt động trong Chuỗi đảo thứ nhất. Năng lực A2/AD của Trung Quốc càng hiệu quả, Chuỗi đảo thứ ba càng chuyển đổi từ một hậu cứ hậu cần thành một căn cứ hoạt động chính. Điều này không phải là một lựa chọn chủ động của Hoa Kỳ, mà là một sự thích ứng mang tính phản ứng trước một môi trường an ninh đã suy giảm. Các phân tích và diễn tập chiến tranh cho thấy những tổn thất tiềm tàng thảm khốc đối với các lực lượng Hoa Kỳ hoạt động ở các chuỗi đảo gần Trung Quốc hơn. Do đó, các tài liệu và hành động chiến lược của Hoa Kỳ cho thấy một xu hướng rõ ràng là củng cố và phân tán lực lượng đến các địa điểm xa hơn, bao gồm Aleutian và Úc. “Sự xoay trục” sang Chuỗi đảo thứ ba không phải là một dấu hiệu của sức mạnh, mà là một cuộc rút lui chiến lược cần thiết do thực tế mới về sức mạnh quân sự của Trung Quốc.

TRUNG QUỐC: PHÁ VỠ VÒNG VÂY

Pháo đài A2/AD: Biến các vùng biển gần thành khu vực tranh chấp

Trung Quốc đã dành hai thập kỷ để xây dựng một hệ thống Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (A2/AD) đáng gờm, được thiết kế để làm thay đổi cán cân quân sự theo hướng có lợi cho mình trong Chuỗi đảo thứ nhất. Hệ thống này nhằm mục đích làm cho sự can thiệp của Hoa Kỳ vào một cuộc xung đột khu vực (ví dụ, về Đài Loan) trở nên tốn kém đến mức không thể chấp nhận được. Kho vũ khí A2/AD là một mạng lưới phòng thủ đa tầng kết hợp tên lửa đạn đạo chống hạm (ASBM), tên lửa hành trình chống hạm (ASCM), tên lửa đất đối không (SAM) tiên tiến, một hạm đội tàu ngầm khổng lồ, và các phương tiện phi động năng như chiến tranh mạng và tác chiến điện tử. Mục tiêu là tạo ra một “vùng tiêu diệt” nơi các tài sản của Hoa Kỳ, đặc biệt là các tài sản có giá trị cao như tàu sân bay, phải đối mặt với rủi ro cực lớn, qua đó đẩy vành đai hoạt động của Hoa Kỳ ra xa về phía đông.

Loại hệ thống vũ khíVí dụ cụ thểTầm bắn hiệu quảMục tiêu chínhChức năng chiến lược
Tên lửa đạn đạo chống hạm (ASBM)DF-21D (“Sát thủ tàu sân bay”), DF-26 (“Tốc hành Guam”)1,500+ km (DF-21D), 4,000+ km (DF-26)Tàu sân bay Mỹ, các tàu chiến lớn, căn cứ ở Chuỗi đảo thứ hai (Guam).Đe dọa các tài sản giá trị cao của Mỹ, buộc chúng phải hoạt động từ xa hơn.
Tên lửa hành trình chống hạm (ASCM)YJ-12, YJ-18Lên đến 800 kmTàu chiến mặt nước, các căn cứ ven biển.Tấn công bão hòa các nhóm tác chiến tàu sân bay, gây khó khăn cho hệ thống phòng thủ.
Tên lửa đất đối không (SAM)HQ-9B, S-400 (mua của Nga)200-400 kmMáy bay chiến đấu, máy bay ném bom, máy bay giám sát của Mỹ.Tạo ra một “vòm sắt” phòng không, giành quyền kiểm soát không phận trong Chuỗi đảo thứ nhất.
Tàu ngầmType 093 (SSN), Type 039 (SS)Thay đổi tùy theo nhiệm vụTàu chiến mặt nước và tàu ngầm của Mỹ, các tuyến giao thông đường biển.Chống tàu ngầm, ngăn chặn các lực lượng hải quân tiếp cận, triển khai tấn công bí mật.

“Nhảy cóc” theo kiểu Trung Quốc: Thâm nhập kinh tế và ngoại giao vào Châu Đại Dương

Nhận thấy khó khăn trong việc thách thức quân sự trực tiếp ở Chuỗi đảo thứ ba, Trung Quốc đang sử dụng một chiến lược ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao để giành lấy một chỗ đứng chiến lược. Điều này bao gồm việc thiết lập các thỏa thuận an ninh (Quần đảo Solomon), tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng có khả năng lưỡng dụng (Kiribati, Quần đảo Cook), và sử dụng các ưu đãi kinh tế để thuyết phục các quốc gia chuyển công nhận ngoại giao từ Đài Loan sang Bắc Kinh.

Quan hệ đối tác của Trung Quốc với Quần đảo Cook, ví dụ, bao gồm các điều khoản về cơ sở hạ tầng cảng và sửa chữa tàu, có thể cung cấp hỗ trợ hậu cần cho Hải quân PLA và mở rộng sự hiện diện của họ sâu trong Chuỗi đảo thứ ba, thực chất là “nhảy cóc” qua Chuỗi đảo thứ hai. Các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc (cảng, sân bay) đặt ra một tình thế lưỡng nan “lưỡng dụng” cổ điển cho các quốc gia chủ nhà và một thách thức chiến lược cho Hoa Kỳ và các đồng minh. Mặc dù được trình bày như các dự án thương mại, chúng có thể nhanh chóng được chuyển đổi để hỗ trợ các hoạt động quân sự. Các thông số kỹ thuật của các dự án này (ví dụ: chiều dài đường băng, độ sâu của cảng) thường vượt quá nhu cầu thương mại và phù hợp với máy bay quân sự và tàu chiến. Điều này tạo ra một sự mơ hồ chiến lược mà Hoa Kỳ khó có thể đối phó trực tiếp mà không bị coi là xâm phạm chủ quyền của quốc gia chủ nhà, biến nó thành một hình thức mở rộng “vùng xám” hiệu quả cao.

Ván cờ dài hơi: Thiết lập chỗ đứng hậu cần và quân sự

Mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là đảm bảo các điểm neo đậu và trung tâm hậu cần ngoài Chuỗi đảo thứ hai để hỗ trợ các nhiệm vụ hải quân tầm xa và răn đe lực lượng Hoa Kỳ. Bằng cách kiểm soát các điểm nghẽn quan trọng và đảm bảo quyền tiếp cận các cảng ở các quốc đảo Thái Bình Dương, Bắc Kinh nhằm mục đích bảo vệ các tuyến cung cấp năng lượng của mình và có được khả năng ngăn chặn đối thủ trong một cuộc xung đột về Đài Loan. Điều này đại diện cho một thách thức trực tiếp đối với khái niệm “ngăn chặn chiến lược” của Hoa Kỳ.

THỰC TẾ HIỆN TẠI: TÀI SẢN, LIÊN MINH VÀ KHÔNG GIAN TRANH CHẤP

THẾ TRẬN QUÂN SỰ CỦA MỸ VÀ MẠNG LƯỚI ĐỒNG MINH

Chòm sao căn cứ của Mỹ: Chỉ huy, kiểm soát và tập kết

Phần này sẽ cung cấp một bản kiểm kê chi tiết về sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ tập trung ở Chuỗi đảo thứ ba, nhấn mạnh bản chất đa lĩnh vực của nó.

Hawaii: Là nơi đặt trụ sở của INDOPACOM (Trại H.M. Smith), trụ sở PACFLT (Pearl Harbor), trụ sở PACAF (Hickam), Lục quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ (Pháo đài Shafter), và Lực lượng Thủy quân lục chiến Thái Bình Dương (Trại H.M. Smith). Đây là trung tâm không thể tranh cãi cho việc chỉ huy, tình báo, hậu cần và phối hợp chiến lược cho toàn bộ chiến trường.

Alaska (Quần đảo Aleutian): Trạm Không quân Eareckson (Shemya) và các cơ sở khác cung cấp một mỏ neo phía bắc cho các hoạt động máy bay ném bom tầm xa, phòng thủ tên lửa và kiểm soát lối vào Bắc Cực.

Châu Đại Dương: Mặc dù các căn cứ trực tiếp của Hoa Kỳ còn hạn chế, quyền tiếp cận thông qua các thỏa thuận như COFA và các cơ sở như Khu thử nghiệm Phòng thủ Tên lửa Đạn đạo Ronald Reagan trên Đảo san hô Kwajalein (Quần đảo Marshall) là cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược.

Tên căn cứVị tríQuân chủng chínhCác Bộ Tư lệnh chínhChức năng chiến lược ở Thái Bình Dương
Căn cứ Liên hợp Pearl Harbor-HickamOahu, HawaiiHải quân, Không quânPACFLT, PACAFTrung tâm hậu cần hải quân và không quân chính; điểm tập kết tiền phương cho các tài sản hải quân; trung tâm chỉ huy hoạt động không quân; căn cứ hoạt động tàu ngầm.
Trại H.M. SmithOahu, HawaiiThủy quân lục chiếnUSINDOPACOM, MARFORPACTrụ sở bộ tư lệnh tác chiến thống nhất cho toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương; trung tâm chỉ huy chiến lược và lập kế hoạch.
Pháo đài ShafterOahu, HawaiiLục quânLục quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ (USARPAC)Chỉ huy và kiểm soát các hoạt động của Lục quân trên khắp Thái Bình Dương, bao gồm hậu cần và hỗ trợ.
Doanh trại SchofieldOahu, HawaiiLục quânSư đoàn Bộ binh 25Căn cứ triển khai chính cho các lực lượng mặt đất của Lục quân, tập trung vào khả năng sẵn sàng chiến đấu và hoạt động an ninh khu vực.
Trạm Không quân EarecksonĐảo Shemya, AleutianKhông quânPACAFĐiểm tập kết tiền phương cho máy bay ném bom tầm xa, giám sát chiến lược, phòng thủ tên lửa và kiểm soát lối vào Bắc Cực.
Khu thử nghiệm Phòng thủ Tên lửa ReaganĐảo san hô Kwajalein, Quần đảo MarshallĐa quân chủngBộ Tư lệnh Phòng thủ Tên lửa và Không gianCơ sở quan trọng để thử nghiệm và phát triển các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo liên lục địa và các hệ thống phòng thủ tên lửa khác.

Các mỏ neo phía nam: Úc, New Zealand và mệnh lệnh AUKUS

Úc được mô tả là một “điểm tựa” hoặc “trục chính” nối liền Chuỗi đảo thứ hai và thứ ba. Vị trí địa lý và liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ khiến Úc trở thành một đối tác thiết yếu cho hậu cần, huấn luyện và triển khai sức mạnh. Hiệp ước an ninh AUKUS (Úc, Anh, Mỹ) là một phản ứng chiến lược trực tiếp trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhằm trang bị cho Úc các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân và thúc đẩy hợp tác về các công nghệ tiên tiến (vũ khí siêu thanh, AI, chiến tranh mạng). Điều này làm sâu sắc thêm sự hội nhập của Úc vào thế trận phòng thủ của Hoa Kỳ trong Chuỗi đảo thứ ba.

AUKUS không chỉ là về tàu ngầm; đó là một chiến lược dài hạn nhằm tạo ra một rào cản công nghệ cao, chất lượng ở phần phía nam của Chuỗi đảo thứ ba. Bằng cách chia sẻ công nghệ nhạy cảm (động cơ hạt nhân, AI, máy tính lượng tử), Hoa Kỳ đang đặt cược rằng họ có thể tạo ra một khoảng cách về năng lực mà lợi thế về số lượng hải quân của Trung Quốc không thể dễ dàng vượt qua. Đây là một hình thức “ngăn chặn công nghệ” bổ sung cho “ngăn chặn địa lý” của COFA. Trong khi Trung Quốc đang nhanh chóng mở rộng hải quân về số lượng, Hoa Kỳ không thể cạnh tranh chỉ bằng năng lực đóng tàu. AUKUS tập trung vào các năng lực bất đối xứng, tiên tiến cao như tàu ngầm hạt nhân và vũ khí siêu thanh, được thiết kế để nhân lên sức mạnh, cho phép một số lượng nhỏ các nền tảng có thể đe dọa một hạm đội lớn hơn. Do đó, AUKUS là một lựa chọn chiến lược để chống lại số lượng lớn của Trung Quốc bằng ưu thế công nghệ của đồng minh, làm cho các hướng tiếp cận phía nam Thái Bình Dương trở nên quá tốn kém để Trung Quốc có thể thống trị.

New Zealand, mặc dù trong lịch sử có phần thận trọng hơn, đang tái sinh quân đội và điều chỉnh chính sách quốc phòng của mình gần gũi hơn với Úc để đối phó với sự ép buộc của Trung Quốc, tạo ra một “lực lượng Anzac” hội nhập hơn. Đang có sự cân nhắc ngày càng tăng về việc New Zealand tham gia Trụ cột II của AUKUS, điều này sẽ củng cố thêm sườn phía nam của Chuỗi đảo thứ ba.

Các quốc đảo Thái Bình Dương: Trục cốt của ngăn chặn chiến lược

Hiệp ước Liên kết tự do (COFA): Nền tảng ảnh hưởng của Mỹ

Các hiệp ước COFA với Liên bang Micronesia, Cộng hòa Quần đảo Marshall và Cộng hòa Palau được mô tả là nền tảng chính cho sự can dự của Hoa Kỳ và là “xương sống của thế trận phòng thủ của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương”. Chúng trao cho Hoa Kỳ hai đặc quyền quan trọng: (1) Quyền Tiếp cận Quân sự Độc quyền vào một vùng rộng lớn của Thái Bình Dương để đặt căn cứ và hoạt động, và (2) Quyền Ngăn chặn Chiến lược, cho phép Hoa Kỳ ngăn chặn bất kỳ quân đội thứ ba nào (tức là Trung Quốc) tiếp cận lãnh thổ, không phận và vùng biển của họ.

Khái niệm “ngăn chặn chiến lược” được COFA trao cho về cơ bản là một cấu trúc quân sự và chính trị. Tuy nhiên, chiến lược của Trung Quốc là làm xói mòn nó thông qua địa kinh tế. Bằng cách làm cho các Quốc đảo Thái Bình Dương phụ thuộc kinh tế vào Bắc Kinh về du lịch, cơ sở hạ tầng và các khoản vay, Trung Quốc có thể đạt được quyền tiếp cận chiến lược trên thực tế, làm cho quyền ngăn chặn về mặt pháp lý của Hoa Kỳ trở nên vô nghĩa theo thời gian. Một cảng thuộc sở hữu của một doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc, trên thực tế, là một tài sản chiến lược của Trung Quốc. Trung Quốc không thách thức trực diện việc ngăn chặn chiến lược mà đang cố gắng làm cho việc duy trì nó trở nên không thể thực hiện được về mặt chính trị và kinh tế đối với các quốc gia chủ nhà, qua đó vượt qua rào cản quân sự bằng các phương tiện kinh tế. Trung Quốc tích cực cố gắng phá hoại COFA bằng cách sử dụng đòn bẩy kinh tế và áp lực ngoại giao để lôi kéo các quốc gia này rời xa Hoa Kỳ và Đài Loan, vũ khí hóa bất kỳ sự chậm trễ nào trong việc cấp vốn của Hoa Kỳ.

Sức mạnh mềm và quan hệ đối tác: Vai trò của chương trình đối tác Thái Bình Dương

Chương trình Đối tác Thái Bình Dương là sứ mệnh hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai (HA/DR) đa quốc gia thường niên lớn nhất ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, do Hải quân Hoa Kỳ dẫn đầu. Thông qua các dự án y tế, kỹ thuật và tiếp cận cộng đồng, chương trình nhằm mục đích xây dựng thiện chí, tăng cường khả năng tương tác với các quốc gia đối tác và tăng cường ổn định khu vực. Đây là một công cụ sức mạnh mềm quan trọng để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc và củng cố vị thế của Hoa Kỳ là đối tác an ninh được ưa thích trong khu vực.

XU HƯỚNG MỚI VÀ BỐI CẢNH CHIẾN LƯỢC TƯƠNG LAI

SỰ ĐỊNH HÌNH LẠI CHIẾN TRƯỜNG BẰNG CÔNG NGHỆ

Cuộc cách mạng siêu thanh: Định nghĩa lại tấn công và khả năng sống sót

Sự phát triển vũ khí siêu thanh của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đã làm thay đổi cơ bản các tính toán chiến lược. Tốc độ của chúng (trên Mach 5) và khả năng cơ động đã rút ngắn đáng kể thời gian phản ứng và thách thức các hệ thống phòng thủ tên lửa hiện có. Đối với Trung Quốc, các tên lửa siêu thanh như DF-17 tăng cường bong bóng A2/AD của họ, gia tăng mối đe dọa đối với các căn cứ tiền phương và tài sản hải quân của Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ, việc phát triển vũ khí siêu thanh của riêng mình (ví dụ: ARRW, HACM) là rất quan trọng. Các hệ thống này sẽ cho phép các cuộc tấn công nhanh chóng, tầm xa từ khoảng cách an toàn, làm cho các nền tảng ở Chuỗi đảo thứ ba trở nên nguy hiểm và có khả năng sống sót cao hơn. Chúng được coi là công cụ chính để “phá cửa” hệ thống phòng thủ A2/AD của Trung Quốc.

Sự dễ bị tổn thương của tàu sân bay và sự trỗi dậy của sát thương phân tán

Tàu sân bay của Hoa Kỳ, biểu tượng truyền thống của sức mạnh triển khai của Mỹ, ngày càng dễ bị tổn thương trước các hệ thống A2/AD của Trung Quốc, đặc biệt là ASBM. Sự dễ bị tổn thương này đang buộc phải có một sự thay đổi về học thuyết. Các cuộc diễn tập chiến tranh cho thấy việc triển khai tàu sân bay trong Chuỗi đảo thứ nhất trong một cuộc xung đột sẽ dẫn đến những tổn thất thảm khốc.

Các khái niệm hoạt động mới đề xuất rút tàu sân bay về vùng an toàn tương đối của Chuỗi đảo thứ hai hoặc thứ ba, nơi chúng có thể hoạt động như một lực lượng dự bị chiến lược hoặc một “hạm đội tại chỗ” – một lực lượng mạnh mẽ có thể kìm hãm tài nguyên của đối phương mà không cần đi vào khu vực có mối đe dọa cao nhất. Đây là một phần của sự chuyển dịch rộng lớn hơn sang “Hoạt động Hàng hải phân tán”, nhằm phân tán hạm đội trên một khu vực rộng lớn hơn để làm phức tạp việc nhắm mục tiêu của đối phương.

Tương lai không người lái: Hệ thống tự hành trong chiến tranh Thái Bình Dương

Hoa Kỳ đang ngày càng dựa vào các hệ thống không người lái và tự hành (trên không, trên mặt nước và dưới nước) để đối phó với lợi thế về số lượng của Trung Quốc. Các hệ thống này nhỏ hơn, rẻ hơn và dễ hy sinh hơn so với các tàu chiến lớn. Một “hạm đội hỗn hợp” trong tương lai sẽ kết hợp các nền tảng có người lái truyền thống (như tàu sân bay hoạt động từ Chuỗi đảo thứ ba) với các bầy đàn hệ thống không người lái được triển khai tiền phương để thực hiện trinh sát, chiến tranh điện tử và các cuộc tấn công chính xác, hấp thụ những rủi ro ban đầu khi xâm nhập vào vùng A2/AD.

QUỸ ĐẠO CẠNH TRANH HẢI QUÂN MỸ-TRUNG

Sự mở rộng của Hải Quân PLA: Từ hải quân nước lục đến lực lượng toàn cầu

Hải quân Trung Quốc là lực lượng lớn nhất thế giới về số lượng tàu (hơn 370 tàu chiến so với khoảng 296 của Hoa Kỳ) và dự kiến sẽ tăng lên 435 tàu vào năm 2030. Năng lực đóng tàu của Trung Quốc vượt xa Hoa Kỳ (ước tính lớn hơn 230 lần), cho phép họ sản xuất các tàu chiến hiện đại như tàu khu trục Type 055 Nhẫn Hải và tàu sân bay Type 003 Phúc Kiếnvới tốc độ đáng báo động. Điều này cho phép Hải quân PLA chịu được tổn thất cao hơn trong một cuộc xung đột và tái tạo lực lượng nhanh hơn. Sự mở rộng này không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng, với các nền tảng mới như tàu sân bay Phúc Kiến(với máy phóng điện từ) và tàu khu trục Type 055 (với 112 ống phóng thẳng đứng) cung cấp khả năng triển khai sức mạnh thực sự trên đại dương.

Chiến lược Hải Quân Hoa Kỳ: Thách thức trong đóng tàu và cơ cấu lực lượng

Hải quân Hoa Kỳ phải đối mặt với những thách thức đáng kể, bao gồm một cơ sở công nghiệp quốc phòng căng thẳng, sự chậm trễ trong các chương trình đóng tàu quan trọng (khinh hạm, tàu sân bay, tàu ngầm), và quy mô hạm đội đang bị thu hẹp. Mặc dù Hoa Kỳ hiện tại vẫn duy trì lợi thế về tổng số ống phóng thẳng đứng (VLS) và trọng tải tàu sân bay, Trung Quốc đang trên đà bắt kịp khoảng cách về VLS vào năm 2027. Phản ứng của Hoa Kỳ tập trung vào việc duy trì lợi thế về chất lượng thông qua công nghệ vượt trội, huấn luyện và một mạng lưới đồng minh, nhưng các đường xu hướng của cán cân hải quân là một mối lo ngại đáng kể cho cuộc cạnh tranh chiến lược dài hạn.

TỔNG HỢP VÀ TRIỂN VỌNG CHIẾN LƯỢC

Chuỗi đảo thứ ba là trọng tâm mới

Sự hội tụ của năng lực A2/AD của Trung Quốc, sự dễ bị tổn thương của các lực lượng tiền phương của Hoa Kỳ, và sự ra đời của các công nghệ tấn công tầm xa đã không thể đảo ngược việc dịch chuyển trọng tâm chiến lược ở Thái Bình Dương về phía đông. Pháo đài A2/AD của Trung Quốc và việc “nhảy cóc” ngoại giao vào Chuỗi đảo thứ ba có nguy cơ tạo ra một “khoảng trống ở giữa” đối với Hoa Kỳ. Chuỗi đảo thứ hai (đặc biệt là Guam) trở thành một điểm nhô ra dễ bị tổn thương – quá xa về phía trước để có thể dễ dàng phòng thủ, nhưng lại quá quan trọng để từ bỏ. Chiến lược của Hoa Kỳ sẽ ngày càng được xác định bởi thách thức bảo vệ “vùng đất giữa” này trong khi hoạt động từ phía sau. Chuỗi đảo thứ ba không còn là một suy nghĩ sau cùng về mặt chiến lược mà giờ đây là chiến trường chính nơi cán cân quyền lực dài hạn sẽ được quyết định.

Tương lai của Chuỗi đảo thứ ba sẽ được quyết định bởi một cuộc chạy đua năng động giữa công nghệ tấn công và phòng thủ. Nếu các hệ thống tấn công tầm xa của Hoa Kỳ (siêu thanh) có thể xâm nhập một cách đáng tin cậy vào hệ thống A2/AD của Trung Quốc, Chuỗi đảo thứ ba sẽ trở thành một bàn đạp tấn công mạnh mẽ. Nếu các hệ thống tầm xa của Trung Quốc có thể đe dọa một cách đáng tin cậy chính Chuỗi đảo thứ ba (một khả năng với các phát triển siêu thanh trong tương lai), vai trò của nó như một khu vực hậu phương an toàn sẽ bị tổn hại. Sự ổn định chiến lược của toàn bộ khu vực phụ thuộc vào kết quả của cuộc chạy đua vũ trang công nghệ này. Khái niệm tĩnh về một Chuỗi đảo thứ ba “an toàn” chỉ là tạm thời; vai trò tương lai của nó không được đảm bảo mà sẽ liên tục bị tranh chấp thông qua sự đổi mới công nghệ.

Thách thức, cơ hội và khuyến nghị chiến lược

Thách thức: Thách thức chính là chống lại chiến lược đa diện của Trung Quốc: đe dọa quân sự ở “các vùng biển gần” và xói mòn địa kinh tế ở “các vùng biển xa” (Châu Đại Dương). Hoa Kỳ phải đối mặt với nguy cơ quyền ngăn chặn chiến lược của mình bị làm rỗng từ bên trong bởi ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc.

Cơ hội: Hoa Kỳ vẫn duy trì một mạng lưới đồng minh mạnh mẽ (AUKUS, Nhật Bản) và các quan hệ đối tác độc đáo (COFA) mà Trung Quốc không có. Tận dụng những lợi thế bất đối xứng này thông qua hội nhập sâu hơn, cam kết kinh tế bền vững và phát triển công nghệ chung là cơ hội chính.

Khuyến nghị:
– Tài trợ đầy đủ và mở rộng các hiệp ước COFA và các mô hình đối tác tương tự để củng cố các mối quan hệ chính trị và ngăn chặn sự xâm nhập kinh tế của Trung Quốc.
– Đẩy nhanh việc phát triển và triển khai các hệ thống tấn công tầm xa, có khả năng sống sót cao (vũ khí siêu thanh, nền tảng không người lái) phù hợp để hoạt động từ Chuỗi đảo thứ ba, đảm bảo khả năng răn đe đáng tin cậy.
– Làm sâu sắc thêm sự hội nhập công nghệ và hoạt động với AUKUS và các đồng minh quan trọng khác để tạo ra một mạng lưới phòng thủ liền mạch, vượt trội về công nghệ, có mỏ neo tại Chuỗi đảo thứ ba./.

Xem thêm:
CHIẾN LƯỢC CHUỖI ĐẢO (Island chain strategy)
CHUỖI ĐẢO THỨ NHẤT (First island chain)
CHUỖI ĐẢO THỨ HAI (Second island chain)
CHUỖI ĐẢO THỨ TƯ, THỨ NĂM – SỰ MỞ RỘNG CÁC RÀO CẢN RA ẤN ĐỘ DƯƠNG CỦA XU THẾ ĐỊA CHÍNH TRỊ MỚI

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *