CHỐNG TIẾP CẬN/CHỐNG XÂM NHẬP KHU VỰC (A2/D2)

Chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (hay A2/AD) là một chiến lược quân sự nhằm kiểm soát việc tiếp cận và bên trong một môi trường hoạt động. Theo định nghĩa ban đầu, chống tiếp cận đề cập đến những hành động và khả năng, thường là tầm xa, được thiết kế để ngăn chặn lực lượng đối phương xâm nhập vào khu vực hoạt động. Chống tiếp cận khu vực đề cập đến những hành động và khả năng, thường là tầm ngắn hơn, được thiết kế để hạn chế quyền tự do hành động của lực lượng đối phương trong khu vực hoạt động. Tóm lại, A2 ảnh hưởng đến việc di chuyển đến một chiến trường, trong khi AD ảnh hưởng đến việc di chuyển bên trong một chiến trường. A2/AD thường đề cập đến một chiến lược được đối thủ yếu hơn sử dụng để phòng thủ trước đối thủ có kỹ năng vượt trội, mặc dù đối thủ mạnh hơn cũng có thể sử dụng A2/AD.

Hoa Kỳ

Chiến lược A2/AD là mối quan ngại đáng kể của chính sách Hoa Kỳ, coi đó là vũ khí của các lực lượng yếu hơn có thể được sử dụng chống lại quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ coi việc kẻ thù áp dụng các chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực “có thể là thách thức hoạt động khó khăn nhất mà lực lượng Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt trong những thập kỷ tới”. Bộ Quốc phòng đã phát triển “khái niệm tác chiến trên không-trên biển chung để đánh bại kẻ thù trên phạm vi các hoạt động quân sự, bao gồm cả kẻ thù được trang bị khả năng chống tiếp cận và chống xâm nhập khu vực tinh vi”.

Đô đốc John Richardson, Tham mưu trưởng Hải quân, đã bình luận về sự mơ hồ của thuật ngữ A2/AD: “Đối với một số người, A2/AD là một mật mã, ám chỉ một “vùng cấm” bất khả xâm phạm mà các lực lượng chỉ có thể tiến vào khi gặp nguy hiểm cực độ. Đối với những người khác, A2/AD ám chỉ một loạt các công nghệ. Đối với những người khác nữa, đó là một chiến lược. Tóm lại, A2/AD là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi, không có định nghĩa chính xác, phát ra nhiều tín hiệu mơ hồ hoặc mâu thuẫn, tùy thuộc vào bối cảnh mà nó được truyền tải hoặc tiếp nhận. […] Hải quân sẽ tránh sử dụng thuật ngữ A2/AD như một từ viết tắt độc lập có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau hoặc hầu như bất kỳ ý nghĩa nào đối với bất kỳ ai”.

Trung Quốc

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang áp dụng chiến lược A2/AD đa diện để loại trừ hoặc ngăn chặn càng nhiều lực lượng đối địch hoạt động trong vùng biển mà họ tuyên bố là lãnh hải của mình phía trong đường chín đoạn tự vạch ra. Động lực ban đầu cho chiến lược này được cho là việc triển khai hai nhóm tác chiến tàu sân bay của Hoa Kỳ trong khu vực, phản ứng với các cuộc thử nghiệm và tập trận của Trung Quốc về một cuộc xâm lược Đài Loan có thể xảy ra vào năm 1995, mà hải quân Trung Quốc đã không phản đối. Trọng tâm chính của chiến lược A2/AD của Trung Quốc nằm ở khả năng phủ nhận trên biển bằng tên lửa, nhưng cũng có tàu ngầm và máy bay. Khả năng phủ nhận của Trung Quốc không đủ để loại trừ quân đội Nhật Bản và Hoa Kỳ khỏi Biển Đông, nhưng đủ để gây ra thương vong nặng nề trong trường hợp xảy ra chiến tranh giành quyền chiếm đóng Đài Loan.

Trên biển

Khái niệm A2/AD từ lâu đã được hải quân sử dụng dưới các tên gọi như Chỉ huy biển cả và kiểm soát các tuyến đường giao thông trên biển. A2/AD của hải quân thường tận dụng các đặc điểm địa lý hạn chế khả năng tiếp cận như các điểm nghẽn hoặc vùng nước xung quanh một hòn đảo. Phong tỏa là một ví dụ về hoạt động chống tiếp cận của hải quân.

Tên lửa chống hạm là một phương pháp hiện đại để ngăn chặn kẻ thù tiềm tàng tấn công bằng đường biển. Trung Quốc, Nga, Triều Tiên, Syria và Iran đều đã phát triển hoặc nhập khẩu những vũ khí như vậy trong nỗ lực phát triển một chiến lược A2/AD hiện đại để chống lại việc triển khai sức mạnh của Hoa Kỳ từ các tuyến đường thủy gần đó. Để đáp trả việc Trung Quốc theo đuổi các khả năng A2/AD như vậy, Hoa Kỳ đã phát triển học thuyết Trận chiến trên không-trên biển. Các phương pháp phủ nhận khu vực khác ở cấp độ chiến lược bao gồm tàu ​​sân bay, tàu ngầm, tên lửa đất đối không, tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, tác chiến điện tử và máy bay đánh chặn. Mìn, tàu ngầm ven biển và tàu tấn công có thể được sử dụng ở các vùng ven biển. Các hệ thống phủ nhận khu vực khác bao gồm tên lửa hành trình, máy bay tấn công tầm xa, mìn và pháo phòng thủ bờ biển. Thuật ngữ A2/AD được tạo ra vào năm 2003 để mô tả các mối đe dọa do hệ thống tên lửa tầm xa, đạn dược chính xác và công nghệ vệ tinh gây ra, khiến các hoạt động quân sự ở vùng ven biển trở nên khó khăn đối với lực lượng hải quân hiện đại.

Trên mặt đất

Mối đe dọa chống tiếp cận đối với Quân đội bao gồm tên lửa đạn đạo chiến trường, tên lửa hành trình, tên lửa và pháo binh tầm xa, vũ khí hủy diệt hàng loạt và các phương tiện phi truyền thống khác, và các hoạt động thông tin”. Các chiến lược A2/AD trên bộ thường tận dụng các đặc điểm địa lý tự nhiên hoặc cầu có thể hỗ trợ các hoạt động chống tiếp cận. Các hoạt động phủ nhận khu vực trên bộ làm suy yếu khả năng của đối phương bằng các kỹ thuật như hỏa lực quấy rối, lừa dối và các chiến thuật giống chiến tranh du kích nhằm tránh đối đầu trực tiếp. Các kỹ thuật phủ nhận khu vực trên bộ cũng bao gồm các cuộc tấn công bằng pháo binh, tên lửa và tên lửa, bãi mìn và các tác nhân hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân.

Trên không

Vùng cấm bay là chiến lược A2/AD trên không, cấm tiếp cận một phần không phận. A2/AD có thể được hỗ trợ bởi các tên lửa đất đối không như S-300S-400. Mối đe dọa đối với các căn cứ không quân tiền phương từ tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo cũng có thể áp đặt lệnh chống tiếp cận.

Không gian mạng

Các cuộc tấn công vào không gian mạng là một phần ngày càng quan trọng của mối đe dọa A2/AD. Các hoạt động A2/AD chiến thuật trên mạng chặn quyền truy cập vào các tài nguyên cụ thể, trong khi A2/AD chiến lược chặn quyền truy cập vào chính không gian mạng./.

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *